| HỌACH ĐỊNH VẬT TƯ TỒN KHO MỜ |
|
HỌACH ĐỊNH VẬT TƯ TỒN KHO MỜ Nguyễn Như Phong Kỹ thuật Hệ thống Công nghiệp Đại học Bách Khoa, ĐHQG TPHCM
Lý thuyết mờ từ lâu đã được ứng dụng trong họach định tồn kho và hoạch định sản xuất một số nghiên cứu tiêu biểu có thể liệt kê như ở bảng sau.
Kacprzyk và Staniewski (1982) xây dựng bài toán kiểm soát tồn kho với thời gian hoạch định vô hạn. Hệ thống tồn kho được biểu diễn như một hệ thống mờ với đầu ra là mức tồn kho mờ và đầu vào cung ứng mờ. Nhu cầu và các ràng buộc cung ứng được mờ hóa. Một giải thuật được xây dựng để tìm chiến lược cung ứng tĩnh cho mức tồn kho hiện tại với một ví dụ minh họa giải thuật.
Lehtimaki (1987) nghiên cứu bài toán điều độ MRP theo bài toán ra quyết định đa mục tiêu. Quyết định thỏa mãn nhu cầu khách hàng với sự thay đổi đơn hàng. Tác giả đưa ra khái niệm mức phục vụ toàn diện với nhiều đặc điểm, được đo bởi mức độ thỏa mãn của khách hàng. Mức độ thỏa mãn của khách hàng muốn thay đổi đơn hàng phụ thuộc mức thay đổi cho phép, thời gian chờ và chi phí thay đổi. Mức độ thỏa mãn của khách hàng không thay đổi đơn hàng phụ thuộc sự chắc chắn của thời gian cung ứng. Mục đích cực đại thỏa mãn khách hàng là Mô hồ và có thể mô hình tốt nhất bởi lý thuyết tập mờ. Lịch sản xuất được xây dựng theo các sự thay đổi đơn hàng đã được chấp nhận. Các ràng buộc chi phối việc lên lịch sản xuất được biểu diễn với việc sử dụng các hàm thành viên. Park (1987) khảo sát mô hình lượng đặt hàng kinh tế EOQ theo lý thuyết tập mờ. Số mờ hình thang được sử dụng để mô hình hóa chi phí đặt hàng và chi phí tồn trữ. Các luật trung vị và cực đại được dùng để chuyển các thông tin về chi phí mờ thành các đại lượng rõ ở đầu vào mô hình. Một ví dụ sử dụng luật trung vị được dùng để minh họa cho mô hình định cỡ lô hàng kinh tế mờ. Lee và các cộng sự (1990) giới thiệu phương pháp dùng lý thuyết tập mờ định cỡ lô hàng trong hoạch định nhu cầu vật tư. Bất định nhu cầu được mô hình bởi số mờ tam giác. Một ví dụ với thời gian hoạch định gồm 8 chu kỳ và 4 tập dữ liệu nhu cầu được dùng để minh họa giải thuật. Các tác giả xác định hai ưu điểm khi dùng số mờ để mô hình hóa nhu cầu. Đầu tiên, lý thuyết tập mờ cho phép mô hình hóa cả nhu cầu bất định và các đánh giá chủ quan của người ra quyết định. Kế đến, phương pháp mờ hóa giải thuật PPA cung cấp nguồn dữ kiện phong phú cho người ra quyết định. Lee và các cộng sự (1991) mở rộng nghiên cứu định cỡ lô cho hoạch định nhu cầu vật tư bằng việc mờ hóa các giải thuật SMA và WWA. Các tác giả cho rằng, khi nhu cầu ở lịch sản xuất là bất định thì nên được mô hình hóa bởi các số mờ. Các giải thuật định cỡ lô mờ được so sánh dựa trên các bài toán với 9 mẫu. Inuiguchi và các cộng sự (1994) so sánh các phương pháp quy hoạch khác nhau nhằm giải bài toán hoạch định sản xuất. Khác với các phương pháp quy hoạch truyền thống, quy hoạch khả năng cho phép thiết lập bài toán với dữ liệu và mục tiêu Mô hồ. Một bài toán hoạch định sản xuất đã được giải với ba phương pháp quy hoạch là quy hoạch mục tiêu, quy hoạch linh hoạt, và quy hoạch khả năng. So sánh ba lời giải cho thấy lời giải theo phương pháp quy hoạch khả năng phản ánh tốt nhất các đầu vào của người ra quyết định, từ đó nhấn mạnh sự quan trọng của việc mô hình hóa tính Mô hồ trong hoạch định sản xuất.
Từ năm 2005 đến 2007, N.N.Phong tuần tự xây dựng các mô hình họach định tồn kho nhu cầu liên tục pEOQ, pEOI, Pepq; họach định tồn kho nhu cầu rời rạc pPOQ, pPPA, pWWA; họach định yêu cầu vật tư pMRP.
Như vậy, đã có không ít nghiên cứu về những lĩnh vực khác nhau của hoạch định vật tư tồn kho và sản xuất. Ứng dụng của lý thuyết mờ khai thác và đi sâu vào từng ngõ ngách của lĩnh vực này, hỗ trợ một cách tích cực cho hệ thống sản xuất.
TLTK Nguyễn Như Phong. Vận trù mờ. NXBĐHQG. 2010.
|