| ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG |
|
ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG Nguyễn Như Phong. Kỹ thuật Hệ thống Công nghiệp. Đại học Bách Khoa ĐHQG
1. Đảm bảo chất lượng
Đảm bảo chất lượng là các họat động cung cấp bằng chứng nhằm thiết lập niềm tin rằng các yêu cầu chất lượng đã được thỏa mãn. Theo ISO 8402-1994, đảm bảo chất lượng là các họat động có hệ thống và được họach định và thực hiện trong một hệ thống chất lượng nhằm thiết lập niềm tin rằng một thực thể đã được thỏa mãn các yêu cầu chất lượng.
Với các sản phẩm đơn giản, bằng chứng đảm bảo chất lượng thường là các dạng kiểm tra, thử nghiệm sản phẩm. Với các sản phẩm phức tạp, bằng chứng không chỉ là các dữ kiện kiểm tra, thử nghiệm mà còn là việc xem xét các kế họach cũng như việc kiểm tóan việc thực hiện các kế họach.
Các dạng đảm bảo chất lượng trên phạm vi tòan tổ chức bao gồm:
2. KIỂM TÓAN CHẤT LƯỢNG
Kiểm tóan chất lượng là một họat động xem xét độc lập nhằm so sánh một đặc tính vận hành thực tế với chuẩn của đặc tính này. Để không bị thiên lệch, người kiểm tóan là người độc lập, không phải là người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp tới đặc tính vận hành đang được kiểm tóan.
Theo tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO thì kiểm tóan chất lượng là sự kiểm tra độc lập và có tính hệ thống nhằm xác định các họat động chất lượng và các kết quả từ các họat động này có phù hợp với một hệ thống đã được họach định, và hệ thống này có được thực hiện có hiệu quả và phù hợp nhằm đạt được một mục tiêu xác định.
Như vậy, kiểm tóan chất lượng là xem xét, đánh giá các họat động chất lượng, khác với kiểm tóan sản phẩm là xem xét, đánh giá sản phẩm. Việc xem xét đánh giá này dựa trên cơ sở so sánh thực tế với một chuẩn xác định.
Với hệ thống gồm nhà cung cấp, nhà sản xuất và một bên thứ 3 độc lập, kiểm tóan chất lượng bao gồm kiểm tóan nội bộ và kiểm toán bên ngòai. Kiểm tóan nội bộ, còn gọi kiểm tóan bên thứ nhất, là kiểm tóan được thực hiện trong nội bộ tổ chức sản xuất, bởi kiểm tóan viên là người trong tổ chức sản xuất. Kiểm tóan bên ngòai bao gồm kiểm tóan bên thứ 2 và bên thứ 3. Kiểm tóan bên thứ 2 được thực hiện trong tổ chức của nhà cung cấp, bởi các tổ chức sản xuất. Kiểm tóan bên thứ 3 được thực hiện bởi một tổ chức độc lập với các tổ chức của nhà cung cấp lẫn sản xuất.
Mục tiêu của kiểm tóan chất lượng là:
3. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG
Kiểm tóan chất lượng đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn như sự phù hợp của kế họach cũng như sự thực hiện kế họach so với tiêu chuẩn. Tuy nhiên kiểm tóan không đảm bảo với lãnh đạo rằng mọi thứ đều đạt chất lượng vì kiểm tóan không liên quan đến những điều sau:
Đánh giá chất lượng là một hình thức đảm bảo chất lượng mở rộng hơn hình thức kiểm tóan chất lượng, nhằm trách các thiếu sót trên. Các hình thức đánh giá chất lượng như sau:
4. KIỂM TÓAN SẢN PHẨM
Kiểm tóan sản phẩm là sự đánh giá độc lập chất lượng sản phẩm nhằm xác định sản phẩm là phù hợp với các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như phù hợp sử dụng. Kiểm tóan sản phẩm thực hiện sau khi kiểm tra với các mục đích:
Sản phẩm sau khi kiểm tra ở nơi sản xuất, trước khi đến tay người tiêu dùng để sử dụng sẽ qua các quá trình đóng gói, vận chuyển, lưu trữ, phân phối, … Các quá trình này đều ảnh hưởng đến sự thỏa mãn của khách hàng hay chất lượng sản phẩm. Một cách lý tưởng, kiểm tóan sản phẩm so sánh chất lượng thực tế của sản phẩm với yêu cầu của người sử dụng. Tuy nhiên điều này rất khó thực hiện. Thực tế các giai đọan kiểm tóan sản phẩm như sau:
Kiểm tóan sản phẩm sau khi kiểm tra là kinh tế nhất nhưng không thấy được ảnh hưởng của các quá trình đóng gói, vận chuyển, tồn trữ, sử dụng lên chất lượng sản phẩm. Kiểm tóan sản phẩm sau khi đóng gói cần phải đóng gói và mở gói để kiểm tra, nhưng thấy được ảnh hưởng của các quá trình đóng gói. Kiểm tóan sản phẩm khi đại lý nhận hàng có khó khăn khi có nhiều điểm nhận hàng nhưng đánh giá được ảnh hưởng của quá trình vận chuyển, tồn trữ. Kiểm tóan sản phẩm khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng sẽ càng khó quản lý hơn nhưng đánh giá được ảnh hưởng của các quá trình đóng gói, vận chuyển, tồn trữ, phân phối. Kiểm tóan khi đang sử dụng sản phẩm là lý tưởng tuy nhiên khó khăn nhất vì số lượng và thay đổi khi sử dụng. Kiểm tóan khi đang sử dụng sản phẩm thường được thực hiện theo phương pháp lấy mẫu.
Lấy mẫu kiểm tóan sản phẩm phụ thuộc lọai hình sản xuất. Với sản xuất liên tục, sản lượng lớn, số chủng lọai sản phẩm thấp, cở mẫu được xác định bởi các kỹ thuật thống kê theo các xác suất rủi ro. Cở mẫu kiểm tóan sản phẩm với sản xuất liên tục chỉ là một phần nhỏ so với sản lượng. Ngược lại với sản xuất rời rạc, đặc biệt khi sản lượng rất thấp và sản phẩm lớn, phức tạp thì cở mẫu thường là tùy chọn và rất thấp, tuy nhiên các đặc tính phải kiểm tra trên mỗi mẫu thường là rất nhiều.
Kết quả kiểm tóan sản phẩm thường có dạng có hay không các lỗi, khuyết tật, hư hỏng, số lượng các lỗi, khuyết tật, hư hỏng. Các lỗi, khuyết tật, hư hỏng thường được phân loại theo mức độ quan trọng hay mức độ nghiêm trọng. Từ mức độ này các trọng số của mỗi lọai lỗi sẽ được xác định. Dựa vào số lượng sản phẩm kiểm tóan, số lượng các lỗi xuất hiện, trọng số cho từng lọai lỗi, báo cáo kiểm tóan sẽ xác định chỉ số tổng hợp đo lường mức lỗi trên một đơn vị sản phẩm.
TLTK Nguyễn Như Phong. Quản lý chất lượng. NXBĐHQG. 2009. ISBN: 978-604-73-1637-3.
|